Vietnam’s hub for climate-smart agriculture and sustainable development

Vietnam’s hub for climate-smart agriculture and sustainable development

CHUẨN HÓA DỮ LIỆU NÔNG HỘ CÀ PHÊ THEO EUDR

Hơn 600.000 nông hộ cà phê Việt Nam đối mặt thách thức lớn khi EU siết yêu cầu truy xuất và chống mất rừng từ cuối năm 2025.

Cần bổ sung thông tin về thực trạng sản xuất của nông hộ trồng cà phê bao gồm thông tin về sử dụng đất nhằm thực hiện việc truy xuất để đáp ứng yêu cầu của EUDR khi quy định này có hiệu lực từ cuối năm 2025.

Truy xuất nguồn gốc cà phê theo Quy định chống mất rừng của EU (EUDR) là yêu cầu cốt lõi của quy định này. Tuy nhiên, hiện còn một số nông hộ thiếu dữ liệu đầu vào để thực hiện, như ghi chép doanh thu theo từng thửa đất và thông tin về các lần bán. Đồng thời, các hộ cũng cần thu thập và cung cấp bằng chứng pháp lý đối với diện tích canh tác.

Hiện 95% sản lượng cà phê của Việt Nam được cung bởi các nông hộ.

Theo ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia cấp cao của Forest Trends, nếu không có cơ chế hỗ trợ truy xuất ở cấp nông hộ, một bộ phận hộ đang trực tiếp sản xuất sẽ khó đáp ứng yêu cầu của EUDR và có thể đối mặt rủi ro khi tham gia thị trường EU trong tương lai. Nhận định này dựa trên khảo sát 95 nông hộ trồng cà phê hiện nay.

Ông Tô Xuân Phúc: 'Nông dân không thể làm truy xuất như doanh nghiệp'

Truy xuất vẫn là mắt xích yếu nhất

Khảo sát đầu 2025 với 95 hộ ở 6 tỉnh cà phê cho thấy: gần 60% chưa ghi chép thu hái, hơn 50% không lưu thời điểm bán. Trong khi EUDR yêu cầu truy xuất tới từng lô đất kèm bằng chứng pháp lý. Ông Tô Xuân Phúc (Forest Trends) nhấn mạnh: thiếu thông tin truy xuất từ đầu nông hộ thì doanh nghiệp thu mua cũng không thể truy ngược để chứng minh nguồn gốc.

Bức tranh hiện trạng

Bình quân mỗi hộ 1,9 ha, thường 2–3 lô; 34% có diện tích <1 ha ⇒ quản lý & truy xuất phức tạp.

53,8% không ghi chép khi thu hái; 86% có ghi chép nhưng gộp chung các lô; chỉ 10% tách luồng cung (chủ yếu hộ tham gia mô hình bền vững có DN liên kết).

Khoảng 40% hộ chưa có sổ đỏ (nhiều là hộ đồng bào DTTS). Tỷ lệ có sổ: Kinh 82% vs đồng bào 55%. Khoảng cách lô tới rừng: 4,6 km (đồng bào) vs ~10 km (Kinh) ⇒ rủi ro EUDR cao hơn.

Ở Sơn La: bình quân >4 lô/hộ, hầu như không ghi chép riêng theo lô.

Thị trường EU chiếm khoảng 40% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam

Vai trò của doanh nghiệp

Khảo sát cho thấy 38% hộ đang liên kết với DN thu mua; nhóm này đáp ứng EUDR tốt hơn nhờ được tập huấn và hướng dẫn lưu trữ hồ sơ truy xuất. Cần mở rộng liên kết theo chuỗi giá trị (từ cung ứng vật tư đến thu mua có truy xuất). Tuy vậy, gần 60% hộ chưa liên kết, khiến việc truy xuất gặp khó. Trong 95 hộ, 56% từng nghe về EUDR nhưng ~80% chưa hiểu yêu cầu cụ thể; đại lý thu mua và truyền hình là kênh thông tin chính—nên tận dụng để phổ biến, tập huấn và nâng tỷ lệ tuân thủ.

Ngành cà phê đang triển khai nhiều sáng kiến truy xuất; tiêu biểu là IDH thí điểm mô hình truy xuất từ đại lý xuống tận nông hộ, dự kiến nhân rộng từ 10/2025. Theo chuyên gia Tô Xuân Phúc, nông hộ không thể tự đáp ứng EUDR nếu thiếu hỗ trợ của Chính phủ và doanh nghiệp trong chuỗi cung. Với mốc cuối 2025 cận kề, cần khẩn trương: nâng năng lực nông hộ, xác nhận tính pháp lý lô đất, thu thập tọa độ địa lý, và hoàn thiện bản đồ rừng năm 2020. Đây là các bước then chốt để đáp ứng EUDR và duy trì thị trường EU.

Nhóm nông hộ nhỏ lẻ đang cần những hướng dẫn cụ thể, thích ứng với EUDR.

Theo Bảo Thắng - nongnghiepmoitruong.vn

Bạn cần Đăng nhập hoặc Đăng ký để bình luận.

Danh sách bình luận (0)

Bài viết mới nhất