THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU QUÝ I/2025: ĐỘNG LỰC TĂNG TRƯỞNG MỚI TỪ THỊ TRƯỜNG VÀ CHÍNH SÁCH
- 04 Sep, 25
- Trần Dỉnh Kỳ
Vietnam’s hub for climate-smart agriculture and sustainable development
Thương mại Việt Nam – EU quý I/2025 duy trì đà tăng trưởng tích cực, song song với những biến động kinh tế – thương mại của EU và các điều chỉnh chính sách nhập khẩu nông sản, môi trường....
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - EU TĂNG TRƯỞNG KHẢ QUAN TRONG QUÝ I/2025
Về xuất khẩu
Quý I/2025, EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam với kim ngạch 13,7 tỷ USD, tăng 12,2% và chiếm 13,3% tổng xuất khẩu. Đức bứt tốc đạt 2,44 tỷ USD, tăng 28,51%, với cà phê tăng 107% về kim ngạch, máy tính và linh kiện tăng 64,2%, dệt may tăng 21,1%, sắt thép tăng 56,3%, thủy sản tăng 26,4%, trong khi điện thoại và cao su giảm. Kinh tế Đức quý I/2025 tăng 0,2% sau khi giảm quý trước, cải thiện nhu cầu nhưng triển vọng còn rủi ro từ chính sách thuế Mỹ. Hà Lan vẫn là thị trường lớn nhất với 3,07 tỷ USD, tăng 4,4% nhưng chậm lại so với mức 26,9% năm 2024. Xuất khẩu sang Hà Lan giảm ở máy móc, phương tiện, điện thoại, trong khi giày dép, cà phê, hạt điều tăng; GDP Hà Lan chỉ tăng 0,1%, tiêu dùng hộ gia đình giảm 0,2%.
Về mặt hàng
Quý I/2025, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU nhìn chung tăng mạnh, đặc biệt ở nhóm công nghệ và nông sản. Điện thoại đạt 2,18 tỷ USD, tăng 9,9%; máy tính 2,16 tỷ USD, tăng 32,7%; máy ảnh 93,4 triệu USD, tăng 103,9%. Nông sản hưởng lợi từ giá: cà phê 1,27 tỷ USD, giảm 6,5% về lượng nhưng tăng 63,6% kim ngạch; hạt điều 183,2 triệu USD, tăng 6,2% lượng và 37,6% trị giá; hạt tiêu 62,24 triệu USD, giảm 10,2% lượng nhưng tăng 37,7% trị giá. Thủy sản đạt 233,2 triệu USD, tăng 22,1%; rau quả 62,38 triệu USD, tăng 14,2%. Dệt may tăng 13,3%, giày dép tăng 12,9%, riêng tháng 3 tăng trên 25%. Ngược lại, sắt thép chỉ đạt 334,26 triệu USD, giảm 44,3%, nhưng Việt Nam vẫn đứng thứ 7 nguồn cung EU với 6,6% thị phần. Gỗ và sản phẩm gỗ đạt 147,45 triệu USD, giảm 2,5%, song vẫn giữ vị trí nhà cung cấp lớn thứ 2 cho EU với 10,4%.
Về nhập khẩu
Quý I/2025, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ EU đạt 3,79 tỷ USD, tăng 1,7% so với cùng kỳ 2024. Tỷ trọng nhập khẩu từ Đức tăng từ 21,4% lên 23,1%, từ Italia tăng từ 10,6% lên 11,6%, trong khi từ Ailen giảm từ 27,3% xuống 21,4%. Nhập khẩu máy móc tăng 9,8%, nguyên phụ liệu dệt may, da giày tăng 15,9%, chất dẻo nguyên liệu tăng 12,3%. Nhập khẩu tiêu dùng cũng tăng mạnh: sữa và sản phẩm sữa tăng 48,2%, chế phẩm thực phẩm tăng 40,7%, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh tăng 12,3%. Ngược lại, nhập khẩu máy vi tính và linh kiện giảm 21,2%, hóa chất giảm 25,3%, phương tiện vận tải và phụ tùng giảm 34,7%, cùng với vải các loại cũng giảm.
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ ITALIA CHƯA THỂ KỲ VỌNG BỨT PHÁ
Về xuất khẩu
Trong quý I năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang Italia đạt 1,3 tỷ USD, tăng 2,8% so với quý IV năm 2024 nhưng giảm 1,8% so với cùng kỳ, cho thấy xu hướng chậm lại sau mức tăng 10,5% năm 2024. Nhu cầu tiêu dùng Italia còn yếu khi bán lẻ tháng 2 chỉ tăng 0,1% so với tháng trước và giảm 1,5% so với cùng kỳ, dù GDP quý I tăng 0,3%, vượt mức 0,1% của quý trước. Trong 26 mặt hàng, có 15 mặt hàng tăng, nổi bật là cà phê tăng 20%, giày dép tăng 92,4%, dệt may tăng 21,3%, máy vi tính và linh kiện tăng 45,2%, rau quả tăng 284,6%. Ngược lại, điện thoại, sắt thép, máy móc, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ giảm mạnh, kéo kim ngạch chung đi xuống. Cà phê là điểm sáng với mức tăng 121,8% so với quý IV năm 2024 và 20% so với cùng kỳ, giúp Việt Nam trở thành nguồn cung cà phê ngoài khối lớn nhất cho Italia với thị phần 12,98%. Giày dép cũng tăng trưởng vượt bậc, đưa Việt Nam lên vị trí nhà cung cấp lớn thứ hai, với thị phần tăng từ 10,19% lên 20,13%. Triển vọng tích cực khi thị trường giày dép cao cấp Italia dự báo tăng trưởng trên 6% giai đoạn 2024–2029, tạo dư địa mở rộng cho hàng Việt.
Về nhập khẩu
Trong quý I năm 2025, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Italia đạt 440,12 triệu USD, giảm 19,5% so với quý IV năm 2024 nhưng tăng 11,5% so với cùng kỳ. Máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác đạt 103,91 triệu USD, chiếm 23,6%, giảm 18,8% so với quý IV và giảm 1,5% so với cùng kỳ. Dược phẩm đạt 68,85 triệu USD, giảm 18,2% so với quý IV nhưng tăng 12,8% so với cùng kỳ. Nguyên phụ liệu dệt may, da giày đạt 50,87 triệu USD, giảm 5,2% so với quý IV nhưng tăng 27% so với cùng kỳ. Kinh tế Italia quý I/2025 tăng 0,3%, vượt dự báo, kỳ vọng thúc đẩy thương mại song phương. Tuy nhiên, ngắn hạn thương mại chưa bứt phá khi chính phủ Italia hạ dự báo tăng trưởng 2025 xuống 0,6%, các năm 2026 và 2027 xuống 0,9% và 0,7%. Italia, nền kinh tế lớn thứ ba Eurozone và cửa ngõ hàng hải châu Âu, vẫn là thị trường quan trọng của Việt Nam nhờ EVFTA và tính bổ trợ trong cơ cấu kinh tế.
QUÝ I/2025: XUẤT KHẨU SANG CỘNG HÒA SÉC tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao
Về xuất khẩu
Quý I năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang Cộng hòa Séc đạt 495,2 triệu USD, tăng 62,3% so với cùng kỳ 2024. Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng 162,6%, chiếm 49,4% kim ngạch; gỗ tăng 40,1%; điện thoại, túi xách cũng tăng, trong khi dệt may, giày dép, sắt thép và phương tiện vận tải giảm. Thị phần hàng Việt tại Séc tăng từ 0,5% năm 2018 lên 4,4% năm 2024 và đạt 6,8% trong hai tháng đầu 2025, dù nhiều mặt hàng chủ lực còn chiếm tỷ trọng thấp. Séc là thị trường tiềm năng và cửa ngõ vào Đông Âu, song kinh tế chịu rủi ro từ thuế quan Hoa Kỳ. IMF hạ dự báo tăng trưởng của Séc năm 2025 xuống 1,6%, Bộ Tài chính Séc dự báo 2%, thấp hơn trước do tác động từ thuế bổ sung 20% với ô tô, thép và nhôm.
Về nhập khẩu
Quý I năm 2025, nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Cộng hòa Séc đạt 53,4 triệu USD, giảm nhẹ 0,8% so với cùng kỳ 2024. Trong đó, nhiều nhóm hàng tăng mạnh: máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng đạt 24,35 triệu USD, tăng 38,9%; máy vi tính và linh kiện đạt 9,6 triệu USD, tăng 27,2%; hóa chất đạt 1,2 triệu USD, tăng 42,5%.
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN SANG EU TĂNG MẠNH DO ĐƯỢC GIÁ
Trong quý I/2025, Việt Nam xuất khẩu sang EU 226.050 tấn cà phê, đạt 1,27 tỷ USD, sản lượng giảm 6,5% nhưng giá trị tăng 63,4% nhờ giá bình quân 5.634 USD/tấn, tăng 74,8%. Tỷ trọng cà phê trong xuất khẩu nông sản sang EU tăng từ 66,2% lên 74%. Riêng cà phê chế biến đạt 104,53 triệu USD, tăng 66,7%. Trong 2 tháng đầu 2025, EU nhập 427.370 tấn cà phê ngoại khối, giảm 15,1%. Việt Nam cung cấp 65.475 tấn, giảm 45,2%, thị phần giảm từ 23,7% xuống 15,3%. Brazil đạt 179.962 tấn, giảm 11,3% nhưng thị phần tăng từ 40,3% lên 42,1%. Ngược lại, Uganda, Colombia và Ethiopia tăng lần lượt 45,1%, 19,3% và 161,8%. Nguyên nhân giảm do EU tạm hoãn Luật chống phá rừng, nguồn cung Việt Nam giảm 5% còn 27 triệu bao, thu hoạch muộn và giá cà phê cao kỷ lục. Giá cà phê, trà, ca cao tại EU tăng 5,26% trong quý I/2025, riêng Phần Lan tăng 25,5%, Thụy Điển 13,2%. Đan Mạch vẫn tiêu thụ 8,7 kg/người/năm, trong khi Bulgaria giữ mức giá rẻ nhất 1,13 euro/cốc dù tăng 19,6%.
Hơn 26.293 tấn hạt điều sang EU, trị giá 183,2 triệu USD, giảm 5,6% về lượng nhưng tăng 22,1% về trị giá nhờ giá cao. Thị trường chững lại do người mua chờ vụ mới và lượng hàng tồn kho nhiều, song nhu cầu tại Đức, Hà Lan vẫn tăng mạnh. Việt Nam đã khai thác tốt các thị trường cửa ngõ như Hà Lan, Đức và mở rộng sang Phần Lan, Ba Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Rumania, Bồ Đào Nha. EVFTA đưa thuế nhập khẩu hạt điều về 0% là lợi thế lớn giúp mở rộng thị phần. Theo Eurostat, 2 tháng đầu năm 2025, Việt Nam là nhà cung cấp hạt điều lớn nhất cho EU, đạt 21.751 tấn, chiếm 70,6% nhập khẩu ngoại khối, gấp 4 lần Bờ Biển Ngà (5.550 tấn). Về rau quả, quý I/2025, xuất khẩu sang EU đạt 152,93 triệu USD, tăng 18,8% so với cùng kỳ 2024. Rau quả Việt Nam có lợi thế giá cạnh tranh nhờ EVFTA và sản phẩm bổ trợ, không trực tiếp cạnh tranh với hàng EU. Với ưu thế khí hậu nhiệt đới, Việt Nam có tiềm năng trở thành nguồn cung ổn định các loại trái cây như chuối, xoài, thanh long, sầu riêng, nhãn, chanh leo cho thị trường EU.
Trong quý I/2025, Việt Nam xuất khẩu 8.895 tấn hạt tiêu sang EU, trị giá 62,23 triệu USD, giảm 10% về lượng nhưng tăng 38,2% về trị giá nhờ giá cao. Xuất khẩu chững lại do tồn kho lớn từ năm trước, vụ thu hoạch chậm một tháng và yêu cầu khắt khe về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, đặc biệt với tiêu trắng và tiêu hữu cơ. Trong khi đó, xuất khẩu cao su, gạo và chè sang EU đều giảm mạnh cả về lượng lẫn trị giá. Đối với cao su, nhập khẩu EU chững lại sau khi khối này tạm hoãn triển khai Luật chống phá rừng (EUDR) thêm một năm. Gạo cũng giảm mạnh khi nhu cầu từ các nhà nhập khẩu suy yếu từ năm 2024; dù giá gạo 3 tháng đầu năm 2025 đã giảm 10,2%, lực mua vẫn chưa phục hồi. Chè tiếp tục nằm trong xu hướng giảm, phản ánh sức mua hạn chế và áp lực cạnh tranh từ các nguồn cung khác.
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG EU tiếp tục tăng trưởng ở mức hai con số trong quý I/2025
Về thị trường, xuất khẩu dệt may Việt Nam sang EU chủ yếu tập trung tại Hà Lan, Đức, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ, chiếm 88,73% tổng kim ngạch. So với quý IV/2024, xuất khẩu sang hầu hết các thị trường lớn giảm mạnh, như Hà Lan giảm 32,8%, Đức giảm 24,5%, Pháp giảm 31,9%, trong khi Tây Ban Nha tăng nhẹ 0,4% và Bồ Đào Nha tăng tới 161,7%. Tuy nhiên, so với cùng kỳ 2024, xuất khẩu dệt may sang EU lại tăng ở 20/24 thị trường, nổi bật như Đức và Italia cùng tăng 21,3%, Tây Ban Nha tăng 14,4%, Pháp tăng 13,8%, Ba Lan tăng 39,4%, Đan Mạch tăng 90,1%.
Về chủng loại xuất khẩu, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu quần áo thun, quần dài, áo jacket, đồ lót, áo sơ mi, quần short và quần áo bảo hộ lao động sang EU, chiếm 76,16% tổng kim ngạch, tăng so với 72,56% của quý I/2024; trong đó, đồ lót tăng mạnh, chiếm 8,7% so với 5,4% cùng kỳ. So với quý I/2024, hầu hết các chủng loại chính đều tăng, nổi bật như áo thun tăng 20,6%, quần dài tăng 16,4%, đồ lót tăng 81,6%, quần áo bảo hộ tăng 33,4%, trong khi áo sơ mi giảm 9,1%, quần áo bơi giảm 30,7%, áo len và bít tất cùng giảm 25,8%, bộ quần áo đồng bộ giảm 15,5%.
Trong 2 tháng đầu năm 2025, EU nhập khẩu hàng may mặc ngoại khối đạt 15,5 tỷ EUR (17,61 tỷ USD), tăng 23,2% so với cùng kỳ 2024. Trung Quốc, Bangladesh và Thổ Nhĩ Kỳ chiếm 61,22% tổng kim ngạch, trong khi Việt Nam đứng thứ 6 với 4,71% thị phần, giảm nhẹ so với 4,76% năm trước. Dù xuất khẩu của Việt Nam tăng, tốc độ tăng trưởng vẫn thấp hơn các đối thủ như Trung Quốc, Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Campuchia.
TÌNH HÌNH KINH TẾ, THƯƠNG MAI CỦA EU TRONG BỐI CẢNH CĂNG THẲNG THƯƠNG MẠI VỚI HOA KỲ
Trong quý I năm 2025, kinh tế Liên minh châu Âu tăng 0,3% và khu vực Eurozone tăng 0,4%, cao hơn dự báo nhờ doanh nghiệp đẩy mạnh giao hàng trước thời điểm Hoa Kỳ áp thuế. Tỷ lệ lạm phát tháng 3 năm 2025 đạt 2,5%, giảm so với 2,7% của tháng 2; tỷ lệ thất nghiệp giảm còn 5,7% so với mức 6,1% cùng kỳ năm 2024.
Tháng 2 năm 2025, Liên minh châu Âu ghi nhận thặng dư thương mại 23,0 tỷ Euro, thay cho mức thâm hụt 5,6 tỷ Euro của tháng 1. Xuất khẩu hàng hóa đạt 225,4 tỷ Euro, tăng 7% và nhập khẩu đạt 202,4 tỷ Euro, tăng 7,2% so với tháng 2 năm 2024. Tính chung hai tháng đầu năm, xuất khẩu đạt 434,3 tỷ Euro, tăng 5,8%; nhập khẩu đạt 416,9 tỷ Euro, tăng 9,1%, thặng dư giảm xuống 17,4 tỷ Euro so với mức 28,5 tỷ Euro cùng kỳ năm 2024. Ngành hóa chất tăng thặng dư, trong khi máy móc, phương tiện và hàng hóa sản xuất khác giảm.
Năm 2024, thương mại hàng hóa giữa Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ đạt 867,34 tỷ Euro, tăng 1,9%. Trong đó, xuất khẩu đạt 532,3 tỷ Euro, tăng 5,7%; nhập khẩu đạt 335 tỷ Euro, giảm 3,5%; thặng dư tăng lên 197,27 tỷ Euro so với 156,65 tỷ Euro năm 2023. Tháng 1 năm 2025, trao đổi đạt 77,1 tỷ Euro, tăng 12,3%; trong đó xuất khẩu đạt 47,5 tỷ Euro, tăng 18% và nhập khẩu đạt 29,58 tỷ Euro, tăng 4,3%, thặng dư đạt 17,94 tỷ Euro.
Tuy nhiên, các biện pháp thuế quan mới từ Hoa Kỳ có nguy cơ dẫn đến chiến tranh thương mại, làm Tổng sản phẩm quốc nội Liên minh châu Âu có thể giảm tới 2,5%. Dự báo lạm phát năm 2025 ở mức 2,3 – 2,4%, tỷ lệ thất nghiệp khoảng 5,9 – 6,3%. Ngân hàng Trung ương châu Âu tiếp tục giảm lãi suất nhưng thận trọng, dự kiến duy trì mức trung lập để vừa kiểm soát lạm phát vừa hỗ trợ tăng trưởng.
KHUYẾN NGHỊ DOANH NGHIỆP VỀ QUY ĐỊNH MỚI RÀ SOÁT QUẢN LÝ NHẬP KHẨU NÔNG SẢN THỰC PHẨM VÀO EU
EU là một trong ba thị trường xuất khẩu NLTS lớn nhất của Việt Nam (sau Mỹ, Trung Quốc), giai đoạn 2017–2024 chiếm 8,9–10,3% kim ngạch xuất khẩu sang EU, đạt trung bình 4,17 tỷ USD/năm (tương đương 8,5–13% tổng NLTS cả nước). EVFTA tạo cơ hội mở rộng thị trường nhờ ưu đãi thuế, trong khi nông sản nhiệt đới Việt Nam ít cạnh tranh trực tiếp với EU nên dư địa lớn. Tuy nhiên, EU có yêu cầu cao về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc (GlobalGAP là tối thiểu). Nông sản Việt vẫn hạn chế: tồn dư thuốc BVTV, thiếu đồng nhất, thu hoạch – bảo quản kém. Từ 08/01/2025, Quy định 2024/3153 siết chặt nhập khẩu: sầu riêng bị kiểm tra 20% (tăng từ 10%), thanh long 30%, đậu bắp và ớt 50% kèm chứng nhận ATTP và kết quả kiểm nghiệm dư lượng BVTV. Doanh nghiệp Việt cần: (1) tuân thủ MRL và yêu cầu nhập khẩu; (2) bảo đảm chứng nhận kiểm dịch thực vật; (3) nâng cao kiểm soát chất lượng, chuẩn bị hồ sơ truy xuất; (4) đầu tư sản xuất bền vững, đạt chứng chỉ GlobalGAP, Rainforest Alliance, Fairtrade.
EU NỚI LỎNG THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ĐỐI VỚI LUẬT PHÁ RỪNG
EU đang điều chỉnh quy định về hạn chế nạn phá rừng toàn cầu nhằm giảm gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp nhập khẩu, theo Bloomberg. Ủy ban châu Âu cho phép nộp báo cáo thẩm định trách nhiệm theo năm thay vì từng lô hàng, đồng thời giảm yêu cầu kiểm tra đối tác ở các khâu sâu trong chuỗi cung ứng. Quy định này, vốn gây nhiều tranh cãi trong khuôn khổ Thỏa thuận Xanh, nhắm tới các mặt hàng liên quan đến phá rừng như cà phê, ca cao, đậu nành, thịt bò. Nhiều ý kiến cho rằng luật này can thiệp quá mức ra phạm vi toàn cầu và gây áp lực thủ tục cho nông dân, nhà nhập khẩu. EU khẳng định vẫn giữ nguyên mục tiêu bảo vệ rừng, song các biện pháp mới sẽ giúp giảm 30% chi phí hành chính. Trước sức ép, khối đã lùi thời hạn thực thi thêm một năm, sang cuối năm 2025, đồng thời sẽ phân loại quốc gia theo mức độ rủi ro phá rừng trước tháng 6/2025.
Bạn cần Đăng nhập hoặc Đăng ký để bình luận.
Danh sách bình luận (0)